www.nhabaovietthuong.com

www.nhabaovietthuong.com
www.nhabaovietthuong.com

Dienstag, 29. Januar 2013

BÀI 1: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ : BÙI TÍN


Những Tên Đặc Công Đỏ Trong Phong Trào Đòi Hỏi Dân Chủ Cho VN



Những tên đặc công đỏ
trong phong trào
đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam

Việt Thường – Nam Nhân – Lý Tuấn

Bùi Tín:

Tên đặc công mở đường thâm nhập

Cộng đồng người Việt Tỵ nạn cộng sản


Thưa ông Bùi Tín,


   Nhân dịp đầu Xuân Quý Mùi (2003), ông cho công bố "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước". Và, ông kêu gọi mọi người tham gia thảo luận, góp ý.

   Ghi nhận lời nhắc nhở của ông là: "dám suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình, hoài nghi một số định lý, chân lý, tín điều cũ, dám nói to điều mình cho là đúng, khi cần dám cưỡng lại số đông.”


   * Trên tinh thần ấy, chúng tôi xin chân thành thảo luận và đóng góp ý kiến với ông, hy vọng sẽ đưa ra công luận những sự thật của lịch sử Việt Nam đương đại.

   * Trước hết, chúng tôi xin hoan nghênh ông đã tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang đã được khen thưởng trong suốt chiều dài 47 năm tận tụy phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam. Chính hành động này của ông đã khiến chúng tôi chấp nhận đối thoại với ông lần đầu tiên nhân dịp Xuân Quý Mùi này (2003). Tuy nhiên cũng xin lưu ý đến ông rằng, ở Hoa xuyên tuyết (XB Nhân quyền – 1991), trang 195, ông khoe được thưởng 16 (mười sáu) cái. Vậy còn 7 (bảy) cái ông giữ lại để làm gì???

   Tại sao phải đến tận bây giờ chúng tôi mới chấp nhận đối thoại? Thưa ông, chính do nội dung 2 cuốn sách "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đã khiến chúng tôi nhận ra rằng: chỗ đứng của chúng ta trong xã hội Việt Nam khác nhau về căn bản nên phương pháp tiếp cận sự thật, mô tả sự thật của chúng ta hoàn toàn ngược nhau. Và, ông viết bậy hơn là viết thật! Đồng thời nên nhớ rằng:


   Chỗ đứng của ông là chỗ đứng của kẻ cai trị.

   Chỗ đứng của chúng tôi là chỗ đứng của người bị trị, của người chống xâm lược.


Yêu nước hay bán nước?


   Trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", ông đã trưng dẫn rất nhiều hình ảnh sống động, bằng cả số liệu để chứng minh cho những tội ác mà Hồ chí Minh và tập đoàn nắm quyền trong đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam cho đến tận giờ phút này, đều bắt nguồn từ việc sao chép, áp đặt cái gọi là chủ nghĩa Stalin của Nga-xô và tư tưởng Mao trạch Đông của Tàu cộng. Đã có lúc ông tiệm cận được chân lý khi ghi nhận câu nói của một nhà báo Mỹ (ông không ghi rõ tên) gặp ông ở Sài-gòn khoảng 1976-1977, rằng: "Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hòa bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền Nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng"(1). Và, ông nhận xét câu nói đó "thật là sâu sắc", có nghĩa ông nhận thấy cách hành xử của giới chức cộng sản cầm quyền và quân lính của tướng Trần Độ tôi luyện là những tên xâm lược. Đó là khía cạnh nhạy bén của một nhà báo kỳ cựu và được tiếp xúc với bên ngoài nhiều, nhưng vì chỗ đứng là "đảng viên cộng sản ở vị trí có quyền" nên ông mượn lời một nhà báo Mỹ khuyết danh để che đậy cái thế éo le của ông: người thức thời trong hàng ngũ lũ bán nước!



   Dám nhìn vào cuộc sống thật của nhân dân Việt Nam, nhưng ông lại phải làm cái việc bảo vệ chỗ đứng của ông, bảo vệ cái tổ chức mà ông đã đầu tư toàn bộ niềm tin, tuổi trẻ; cả mồ hôi và máu, cho nên ông đã chân thật viết rằng: "Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt."(2)



   Cái thế éo le đó của ông đã khiến ông luôn luôn mô tả thì tương đối chân thật, nhưng kết luận thì tránh né cốt lõi của sự thật – nghĩa là viết bậy!!!


   Hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông được viết ra sau khi cả Nga-xô và khối chư hầu Đông-âu của nó đổ kềnh. Nhiều tài liệu phong phú đã bổ xung cho việc vạch trần những tội ác trời sầu đất thảm của tập đoàn cai trị ở các nước gọi là "phe xã hội chủ nghĩa". Những người làm cái việc vạch trần các tội ác đó, phần lớn đều sống trong "địa ngục xã hội chủ nghĩa", và cũng hầu hết đều ở cái thế éo le như ông. Nghĩa là, một tay thì vạch sự thật, còn tay kia tự che mắt không dám thấy tay mình cũng có máu. Vì thế cách lập luận cứ vòng vo tam quốc, trình bày theo lối hàn lâm, kinh viện, tránh né nói toạc móng heo cho dễ hiểu.


   Thí dụ: Lê-nin là cha đẻ của chủ nghĩa thực dân đỏ thì lại gọi là chủ nghĩa Lê-nin. Lê-nin mượn chủ nghĩa Marx làm bộ áo cà-sa để che đậy bộ mặt bành trướng bá quyền. Vì thế nên ngay lúc Nga-xô còn bao khó khăn, Lê-nin phải ký hiệp ước để các nước vùng Baltique và Ukraine chịu ảnh hưởng của Đức, thì từ đầu những năm 1920 đã cho lệnh tiến quân đánh chiếm Ngoại-mông (nay là nước Mông cổ), đặt thành thuộc quốc trên thực tế, còn về danh xưng thì màu mè gọi là "nước bạn". Rồi lại đẻ ra cái gọi là "Quốc tế 3" với luận điểm ủng hộ sự giải phóng của các thuộc địa (ra khỏi chủ nghĩa thực dân "xanh") mà thực chất đó là công cụ của Nga-xô nhằm tuyển mộ, đào tạo người của các nước, nắm chặt cả thân xác lẫn linh hồn của họ, biến họ thành tay sai, trở về tổ chức chống "thực dân xanh" để rồi tự nguyện làm nô lệ cho thực dân đỏ (là chế độ được đội tên là "Liên bang xô viết).


   Mao trạch Đông của Tàu cộng thấy được âm mưu đó của Nga-xô, cho nên cũng dùng cái áo "chủ nghĩa Marx-Lê-nin" để chống lại Nga-xô và cũng muốn giành quyền độc tôn trong chủ nghĩa thực dân đỏ mà thôi.
   Chẳng làm gì có cái gọi là "chủ nghĩa giáo điều (hay phần tử giáo điều)". Nếu nhìn vào hành động thực tế thì cả Lê-nin và cả Mao đều là "xét lại" so với chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã nói và làm ngược với Marx là "cách mạng có thể thành công ở một nước"; còn Mao thì dựa vào nông dân chứ không dựa vào công nhân, và lấy "nông thôn bao vây thành thị". Vậy họ "giáo điều" ở chỗ nào?
   Vì thế, nên những mục tiêu của chủ nghĩa Marx lại chỉ xuất hiện ở các nước "tư bản, đế quốc", như về năng suất lao động, về phúc lợi xã hội, nhân quyền, tự do, dân chủ v.v. Còn ở các nước lấy chủ nghĩa Marx-Lê-nin làm kim chỉ nam thì hoàn toàn ngược lại. Cũng may là nhờ ăn, ở trong nước tư bản, nghiên cứu, sáng tạo và phổ biến trong điều kiện của nước tư bản mà các tác phẩm của Marx được quảng bá, và Marx chết cũng trong yên lành. Chứ giả dụ: nếu Marx ở một trong bất cứ nước nào với mô hình "xã hội chủ nghĩa" thì chắc chắn Marx sẽ được đưa vào "tầng đầu của địa ngục", hoặc bị nghiền nát ở "Quãng trường Thiên an môn", hoặc đập đá ở trại giam Đầm Đùn của Hồ chí Minh cho đến chết rồi!!!
   Những thông tin trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông chỉ rất phong phú với người chưa sống qua hoặc sống mà không có điều kiện hoặc không đặt mục tiêu nghiên cứu về cuộc sống của người dân dưới cái gọi là "chế độ xã hội chủ nghĩa". Còn với người đã có ít nhiều kinh nghiệm về sự cai trị của tập đoàn Hồ chí Minh và những kẻ nối nghiệp hắn thì còn hời hợt, còn nhiều chỗ sai và nhiều mâu thuẫn, quanh co.
   Như chúng tôi đã nhận xét, rằng chỗ đứng của ông là của kẻ cai trị, mà lại là kẻ cai trị trong tổ chức cộng sản, nên nó vẫn đậm màu sắc ban ơn, kẻ cả và mâu thuẫn. Thí dụ, ngay những trang đầu của "Hoa xuyên tuyết", ông đã viết: "Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa. Các bạn hãy coi đây là lời tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy."(3)
   Trong đoạn văn nêu trên, ông kêu gọi "hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại", nhưng rồi ông lại cũng ủng hộ hết mình lập luận kêu gọi: "quên quá khứ". Thậm chí ông còn đi xa hơn khi viết: "không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án". (4)(!!!???)
   Và, y hệt giới chức có quyền của cộng sản, luôn luôn tự cho phép thay mặt mọi người mà chẳng hề hỏi ý kiến ai. Cao và xa thì như việc bảy (7) tên cộng sản Việt Nam dám thay mặt cả nhân dân Lào và Cam-bốt, để theo lệnh của Quốc tế 3 (Nga-xô) thành lập "đảng cộng sản Đông dương"; gần thì Hồ chí Minh và cái dúm tay chân của hắn "tự cho phép thay mặt nhân dân Việt Nam" để xây dựng cái gọi là chủ nghĩa xã hội; để dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; dâng cảng Cam-ranh cho Nga-xô v.v. Ông cũng thế, ông Bùi Tín ạ! Làm sao ông có thể và có quyền thay mặt cho thế hệ của ông để nhận tội với thế hệ trẻ?(!)
   Trong thế hệ của ông, số như ông là bao nhiêu? Ngay từ 1945, những người của đảng Đại Việt đã thấy cái chất yêu tinh trong lốt người của Hồ chí Minh; rồi tiếp đến là Đức cha Lê Hữu Từ cùng với giáo dân, nhất là ở địa phận Bùi Chu và Phát Diệm; rồi các người theo các giáo phái Cao-đài, Hòa-hảo v.v… cho nên mới có chuyện "bất hợp tác" với Hồ. Từ sau các phong trào do Hồ chí Minh phát động như "đấu tranh chính trị", "rèn cán chỉnh quân" và sự công khai trở lại cái công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức chủ nghĩa Lê-nin – Stalin) là đảng cộng sản Đông dương, phân thân làm ba (3) cho dễ biến hóa, mà cái phần ở Việt Nam gọi là "đảng Lao động VN", thì những người ở thế hệ của ông đã ào ào tụ họp lại thành lực lượng chống sự xâm lược của thực dân đỏ. Lúc đó, chưa có điều kiện, chưa có nhiều dữ kiện cụ thể để chứng minh được cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến dùng người Việt Nam chết cho chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô, tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp. Cho nên người ta đã mơ hồ gọi là cuộc chiến quốc – cộng, hoặc có khi gọi là chiến tranh ý thức hệ, để sau này còn lầm lẫn nặng hơn khi gọi đó là cuộc chiến huynh – đệ!!! Đây là cuộc chiến giữa nhân dân Việt Nam chống những tên Việt gian, lính đánh thuê cho thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. Nghĩa là chống thực dân đỏ xâm lược.
   Ông đã kinh ngạc khi kể lại những chuyện Hồ chí Minh bị Stalin và Mao coi thường như thế nào; Hồ và lũ cán bộ cộng sản của Hồ đã răm rắp tuân theo một cách ngoan ngoãn những lệnh của Stalin, những ý kiến của cố vấn Tàu do Mao phái sang. Ông đã tả rất sinh động cảnh các cố vấn Tàu cộng ngồi gác hai chân lên bàn, nhổ nước miếng ồn ào rất là Tàu và ra mọi mệnh lệnh, và từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v… kính cẩn chấp hành.
   Ông là người đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, xin hỏi ông có thấy trong lịch sử Việt Nam và các nước trên thế giới (ngoại trừ các nước chư hầu cộng sản của Nga-xô và Tàu cộng) có chuyện như vậy xảy ra không? Chắc chắn là không. Còn nếu có thì chỉ xảy ra giữa mẫu quốc và thuộc địa; giữa khâm sai thiên triều với lũ tay sai bán nước mà thôi!
   Chính vì chỗ đứng của ông ngược với chúng tôi, nên tuy có thức thời nhìn ra những cảnh trên, nhưng vì không dám "tự phủ định chính mình" (như ông viết), nên ông bào chữa cho bộ mặt bán nước của Hồ và chân tay kế cận là bị ảnh hưởng của Stalin-nít và Mao-ít!!!
   Ông thử trích xem trong "chủ nghĩa Stalin" và "chủ nghĩa Mao" có chỗ nào qui định cho "cố vấn" ngồi gác hai chân lên bàn, khạc nhổ bừa bãi và ra lệnh cho "chủ tịch nước", "tổng bí thư đảng" v.v… và tất cả phải chấp hành không dám bàn cãi, dù phải rất tàn bạo đối với cả ân nhân của mình, như cái chết của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát thành Long) là một ví dụ.
   Vì không dám nhìn vào cái sự thật của những hành động và thái độ Việt gian đó của tập đoàn Hồ chí Minh nên ông đã viết sai với sự thật rằng: "tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến 10-1982” (5).
   Vào thời điểm 1945, ngay tại Pháp, trong chính phủ của tướng Đờ-Gôn có sự tham gia của Mô-rít Thô-rê, là chủ tịch đảng cộng sản Pháp, thế mà Hồ lại phải giải tán đảng cộng sản Đông dương? Trong khi các đảng khác như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội tham gia Chính phủ Liên hiệp, đâu cần phải giấu mặt như Hồ và bè lũ. Tại sao vậy? Bởi vì nhân dân Việt Nam ghê tởm bàn tay máu của cộng sản từ cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh, và Hồ còn muốn cố che cái công cụ bành trướng của thực dân đỏ khỏi bị chú ý đến.
   Mong ông hãy tham khảo lại "Biên niên tiểu sử của Hồ" (có trong cái gọi là "Bảo tàng cách mạng") để thấy rằng thời kỳ đầu ra đời của lực lượng vũ trang là do sự hợp nhất các lực lượng vũ trang của các đảng phái, có cả bảo an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim để lại. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDĐ) là bộ trưởng quốc phòng; giáo sư Tạ quang Bửu (khi đó chưa là cộng sản) giữ chức thứ trưởng và các cán bộ khung là Hoàng đạo Thúy (huynh truởng hướng đạo) làm chính trị vụ trưởng; bác sỹ Vũ văn Cẩn (nhân sỹ yêu nước) làm y tế vụ trưởng, và Vũ Anh (Việt minh) làm chế tạo vụ trưởng. Lực lượng vũ trang được gọi là quân đội quốc gia, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp, chứ không phải của đảng cộng sản!
   Trong cái lực lượng quân đội đó, nhân sự là cộng sản hồi ấy chỉ có một nhúm rất nhỏ mà cũng chẳng dám công khai nhận mình là cộng sản. Số lớn những người có tài là từ lực lượng vũ trang của VNQDĐ như các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v. Một số khác từ lò lính Pháp mà ra, rồi vào lực lượng bảo an binh, như Lê trọng Tấn, Bằng Giang, Lô Giang. Số khác là từ học sinh, sinh viên như các tướng Vũ Lăng, các đại tá Lê minh Nghĩa, trung tá Nguyễn sanh Thí. Thậm chí cả những người được đeo lon cấp tá như Nguyễn đình Thi, Đỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Cao kim Điển, Quang Dũng v.v. cũng chẳng biết cộng sản là cái quái gì khi gia nhập quân đội. Và, chính ông cũng thế. Phải chờ đến sau khi Mao làm chủ lục địa, quân đội Quốc gia Việt Nam bị Hồ, nhân danh Chính phủ Liên hiệp, đưa qua Tàu làm cái việc tẩy não, rèn cán chỉnh quân, dụ khị, cưỡng bức mọi người gia nhập cộng sản, biến cái chính nghĩa của Quân đội Quốc gia trong nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và dân tộc khỏi ách thực dân Pháp thành ngụy quân và cái danh xưng Quân đội Quốc gia bị đánh tráo thành "quân đội nhân dân" hay "bộ đội cụ Hồ"(!!!), công cụ của thực dân đỏ, để tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp trên toàn cõi Đông-dương.
   Cho nên cái lực lượng vũ trang mà ông tham gia thoạt kỳ thủy không phải do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo" như ông đã viết. Vì thời kỳ đó về công khai làm gì có đảng cộng sản!!! Huấn luyện viên của các trường quân chính hầu hết không ai là cộng sản mà là hàng binh Nhật trốn ở lại; là cai, đội người Việt trong lính của Pháp cũ; là lực lượng bảo an binh của chính phủ Trần Trọng Kim để lại v.v. Quân đội đó từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà ra, theo lời kêu gọi của Chính phủ Liên hiệp.
   Ngay Trần Độ, trong hồi ký viết lần đầu, do Nhà xuất bản Thanh niên in năm 1957, có kể rằng: cuối 1944, Trần Độ là bảo vệ của Trường Chinh, được Trường Chinh trao cho một khẩu súng lục Browning và 2 viên đạn. Trần Độ giữ súng đạn mà vẫn chưa biết sử dụng. Một hôm đi qua Nghĩa đô thuộc huyện Từ liêm (Hà-nội), bị trương tuần của làng vây bắt. Trần Độ rút súng ra, tuy không có đạn nhưng trương tuần không biết nên sợ hãi bỏ cho Trần Độ đi thoát. Sang giữa năm 1946, Trần Độ được đưa về trung đoàn Thủ đô, cũng vẫn chưa biết gì về súng. Đơn vị có khẩu trung liên của lính người Việt trong đơn vị lính Pháp lấy mang về. Anh em thấy Trần Độ do trên phái tới, tưởng giỏi lắm, nhờ Trần Độ chỉ dẫn. Trần Độ có biết gì đâu, nhưng láu vặt, không thực thà nói rằng không biết mà giả vờ lệnh cho người lính Việt Nam đã ở trong binh lính của Pháp ra tháo và lắp khẩu súng cho anh em xem, nhân đó Trần Độ cũng học mót.
   Quyển hồi ký đó của Trần Độ ra lò cùng thời cuốn "ký sự Điện biên", năm 1957, chắc chắn còn lưu giữ trong thư viện Quốc gia (phố Tràng thi, Hà-nội). Nếu ông chưa từng đọc qua, có thể e-mail về Việt Nam, nhờ ai đó đọc hộ. Từ đó để thấy, sau 45 năm, tưởng thiên hạ quên hết chuyện cũ, nên trung tướng cộng sản Trần Độ đã tự ý sửa lại hồi ký của mình, năm 1957, để từ bảo vệ (tức lính hầu) của Trường Chinh, thành "được đảng phân công giúp việc cho tổng bí thư Trường Chinh"(6) (Đúng là Cuội nên là tướng "chính ủy" có khác!!!)
   Tiếp theo là các chính sách Việt gian nữa của Hồ đã khiến nhân dân Việt Nam chia làm hai khối. Một do Hồ cầm đầu quyết từng bước nhuộm đỏ toàn Đồng dương, biến Đông dương thành thuộc địa kiểu mới cho Nga-xô như Hồ đã nhận lệnh từ 1930, khi lập ra đảng cộng sản Đông dương. Khối còn lại là những người Việt Nam quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chính dã tâm của Hồ đã khiến năm 1954 Việt Nam tạm bị chia cắt làm hai miền qua hiệp định Genève về Việt Nam.
   Ngay khi thi hành hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, bọn Hồ đã có dã tâm vi phạm. Chính ông đã kể lại lời Lê Duẩn rằng: "Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé." (7) Và ông cũng có nói đến nghị quyết 15 (khóa 2), của cộng sản Việt Nam, hạ quyết tâm dùng bạo lực vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam. Cái nghị quyết 15 ấy được ra đời trong cuộc họp dưới sự chủ trì của Hồ vào tháng 1-1959 (không hiểu sao ông lại viết lầm là 1960). Vì thế đến tháng 10-1959 chính phủ Ngô Đình Diệm phải có sắc luật 10/59 để tự vệ chống chủ trương bạo lực của cộng sản.
   Đó là bằng chứng rõ ràng về dã tâm của tập đoàn Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân và chính quyền miền Nam Việt Nam vì tự vệ đã phải trừng trị những tên tay sai của thực dân đỏ nằm vùng, dùng bạo lực cướp của, giết người, phá hoại đời sống của người dân miền Nam. Nhưng do chỗ đứng của ông, nên ông đã nhìn sự việc lộn ngược, gọi bọn cướp của, giết người; bọn Việt gian, tay sai của thực dân đỏ đó là: "những người yêu nước"!!!(?)


Thưa ông Bùi Tín,


   Những người Việt Nam rời vùng Hồ chí Minh cai trị, chạy vào thành thị trước năm 1954; những người từ Bắc di cư vào Nam, năm 1954; toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam cùng với bây giờ là đại bộ phận người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại (loại trừ bọn nằm vùng, bọn gọi là "thành phần thứ ba", bọn cơ hội chủ hàng), và phải kể đến cả những người dân thường ở Bắc Việt Nam - mà ông gọi là công dân loại 2 - tuy cùng thế hệ với ông, nhưng tất cả đều là nạn nhân của cuộc xâm lăng vũ trang của thực dân đỏ mà tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ chí Minh và bè lũ kế nghiệp thực hiện, cho nên họ không hề có tội gì với thế hệ trẻ để phải nhờ ông thay mặt xin lỗi. Hơn nữa, nếu viết như ông, rằng cả một thế hệ có sai lầm thì huề cả làng. Đây là kiểu xin lỗi rất quái chiêu, không biết phải nói như thế nào.


  Cái lối tư duy đó của ông đã khiến ông không thấy rằng chính thế hệ trẻ hiện nay đang mang món nợ to lớn đối với thế hệ đàn anh, đã và đang chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cả xanh, cả đỏ, cả lũ cộng sản Việt gian bán nước là tập đoàn Hồ chí Minh và những tên kế tục hắn cho đến nay là bọn Nông đức Mạnh, Lê khả Phiêu, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Võ văn Kiệt, Trần đức Lương, Phan văn Khải, Nguyễn văn An, Nguyễn mạnh Cầm, Nguyễn di Niên, Lê công Phụng v.v. Biết bao nhiêu người đã hy sinh thân mình. Một số rất ít được chôn cất ở các nghĩa trang thì sau tháng 4-1975, chính ông cũng thừa nhận rằng bị tập đoàn cộng sản Việt gian chóp bu cho san bằng mồ mả. Ngay những người đã chết từ lâu, trên mảnh đất của mình, mà bị đối xử như vậy, thì thấy bọn chúng còn tàn bạo hơn cả thực dân xanh (tức Pháp). Vì thực dân Pháp vẫn tôn trọng ngôi mộ của các liệt sỹ VNQDĐ ở Yên Báy, mộ của Đề Thám, của Phan Đình Phùng, Phan Chu Trinh v.v. và ngay cả mộ của bè lũ Nguyễn phong Sắc, Lê Mao. (Xô viết Nghệ tĩnh) cho đến Trần Phú, Hà huy Tập. Và cả mồ bố đẻ của Hồ chí Minh đâu có bị chính quyền miền Nam Việt Nam san bằng. Các thương phế binh của QLVNCH còn ở lại Việt Nam bị đối xử ra sao? Ra đến hải ngoại, các thế hệ đó vẫn tiếp tục phục quốc, đấu tranh cho dân chủ, tự do của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Namkhông ngừng nghỉ. Những Phạm Phú Quốc, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Long. và bao chiến sỹ vô danh đã ngã xuống trước đây; những Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch. Những cuộc xuống đường của hàng 50 ngàn người về California trong vụ tên Việt gian Trần Trường; hàng 25 ngàn người trong kỷ niệm tượng đài chiến sỹ Việt-Mỹ vừa qua v.v. Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm thừa kế thế hệ đàn anh, tiếp tục đấu tranh loại trừ tụi Việt gian cộng sản hiện nay, phải "tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa."(8)

   Đúng vậy, nếu không tìm hiểu quá khứ và hiện tại thì sẽ mơ hồ mà hành động như kiểu nhóm trí thức trẻ ở Toronto, dâng hương tưởng niệm, đọc văn tế trung tướng cộng sản Trần Độ; hoặc như "giáo sư, nhà bình luận chính trị" Nguyên Khả Phạm thanh Chương, mạt sát những người không tưởng niệm Trần Độ là "những cái đầu con tôm", nhưng khi được ông Đại Dương lịch sự chỉ dẫn cho bệnh táo bón thông tin, dư thừa ngôn ngữ Cầu Ông Lãnh thì Nguyên Khả "lặn" mất tăm, không dám trả lời đúng hay sai (dù bằng loại ngôn ngữ nào cũng được).
Ông chỉ có thể thay mặt cho thế hệ của ông đã và đang còn nằm trong bộ máy đàn áp của tập đoàn Việt gian cộng sản để xin lỗi thế hệ trẻ về những sai lầm tàn bạo, đẫm máu gây ra cho nhân dân và đất nước ViệtNam. Xin thành thật ghi nhận thiện chí của ông, nếu ông làm được điều đó.

Nhưng, xin lỗi chưa đủ, mà phải giúp cho thế hệ trẻ những thông tin trung thực, những kinh nghiệm máu và nước mắt của bản thân để họ dễ dàng "hiểu quá khứ và hiện tại" ít nhất cũng phải tương đối chính xác, làm cơ sở để "lý giải minh bạch mọi vấn đề".

Đặc tính của tập đoàn Việt gian cộng sản là "vừa đánh trống vừa ăn cướp", là "ký sinh trùng" của xã hội, là "nói một đằng làm một nẻo".

Hai cuốn sách của ông đã phơi bày mọi chính sách, mọi chủ trương của tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế hắn, hoàn toàn do Nga-xô hoặc Tàu cộng chỉ đạo, sai khiến. Cung cách của chúng trước Nga-xô và Tàu cộng hoàn toàn là của lũ đày tớ vừa hèn hạ vừa trung thành mù quáng.

Những dẫn chứng cụ thể và sự mô tả của ông rất rõ ràng. Đúng ra phải kết luận rằng đấy là cốt cách Việt gian! Tiếc rằng ông, tuy biết hổ thẹn về "cấp lãnh đạo" đó của ông, nhưng chưa đủ can đảm để căm thù chúng, mà lầm lẫn kết luận sai và trút căm thù sai chỗ khi ông viết: "Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt Nam thì phải nói đến Stalin và Mao trạch Đông. Hai nhân vật này đã mang đến Việt Nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt Nam"! Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả bi kịch là ở đó."(9) Và, ông gọi Stalin là: "tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên-xô và thế giới" (10) Ông viết tiếp: "Stalin đã tạo ra những tên đồ tể dưới trướng hắn như Béria." (11)

Về Mao, ông viết: "từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân dân và các tủ sách công cộng: trong thư viện Quốc gia Hà-nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đế tủ sách các khu phố, trường học, xí nghiệp đều tràn đầy sách của Mao. Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12-1951, tại Đại hội Đảng lần thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Engels - Lênin - Stalin và tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp "địa chủ" (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau."(12) Và, ông khẳng định ai là chủ ở miền Bắc Việt Nam khi ấy, khi hạ bút viết: "Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch "là những ông chủ thực sự của cải cách ruộng đất mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại!" (13) Đoạn văn trên của ông minh chứng Hồ và đảng của hắn là Việt gian! Tiếc rằng ông chỉ dám giải thích cái hiện tượng đó là do: "Sùng bái" mặt trời phương Đông, nể sợ thiên triều Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ".(14)

Tất cả những trích dẫn trên đều do ông tự nguyện viết ra, ấy thế mà do chỗ đứng của ông, nên ông lại rất mâu thuẫn khi cố bào chữa cho Hồ rằng: "ở phía những người quốc gia cực đoan nhất thì sự đánh giá ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực"!!!(?)(15)

Để rồi ông lại chán nản thốt ra rằng: "Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay (tức trường của cộng sản), nhiều sự kiện, nhân vật cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt Nam Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức VNQDĐ sau đó rồi Đại Việt Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân cũng như Cách mạng Đồng Minh Hội đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sai của Quốc Dân Đảng Trung quốc, tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ; nói tóm lại những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù của dân tộc".(16)

Những tổ chức nói trên mà ông ghi nhận rằng bị tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế coi là "Việt gian", lại còn qua giáo trình lịch sử để nhồi nhét vào đầu các thế hệ trẻ sự "xuyên tạc" ấy, chắc chắn không hề có chủ trương, chính sách, thái độ vâng dạ như Hồ và cái đảng cộng sản của hắn trước mẫu quốc Nga-xô và Tàu cộng để sát hại nhân dân Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Bởi vì chính Hồ, trong cuộc gặp gỡ Lăng Kỳ Hán và Hồng Chi Hằng trong phái bộ của Trung hoa dân quốc, giữa năm 1946, đã trịnh trọng khẳng định rằng: "ở Việt Nam bất kỳ đảng phái nào cũng nhất trí đòi hỏi độc lập".(17)

Đấy là một sự thật. Nhưng là sự thật chưa đầy đủ, vì đảng nào cũng mưu cầu độc lập cho Việt Nam, chỉ riêng đảng cộng sản Đông dương là trước khi ra đời (1930), sau khi ra đời cho đến nay đều tìm cách triệt hạ các đảng phái, các cá nhân không chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Trần ích Tắc bị đi theo quân Nguyên vào Việt Nam (chắc vì ươn hèn và tham vọng). Những Hoàng cao Khải, Lê Hoan, chắc chắn tội ác không bằng một phần tỷ của Hồ. Khi Hồ còn sống đã dâng biển dâng đất cho Tàu cộng. Bọn thừa kế Hồ là Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh lại vừa tiếp tục dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng và v.v.

Những kẻ nói trên bị lịch sử kết tội là Việt gian thì Hồ và lũ thừa kế của hắn phải là đại, đại Việt gian.

Dù ông cố tìm cách phủ nhận, nhưng sự mô tả của ông về Hồ và bè lũ qua hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" đã chứng minh hùng hồn và cụ thể rằng chúng, tức Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn là lũ Việt gian bán nước.

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen