www.nhabaovietthuong.com

www.nhabaovietthuong.com
www.nhabaovietthuong.com

Montag, 19. November 2012

SỰ TÍCH CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM 12


               
                SỰ TÍCH CON YÊU RÂU XANH Ở VIỆT NAM 12


* * * * *
Việt Thường
Bài 12

Xin nói tiếp về nghệ thuật đu dây của họ Hồ

Sau khi Dương bạch Mai đi tàu suốt đến ga “âm ty” và để Lê đức Thọ sửa gáy tất cả những ai dám bảo lưu ý kiến về “nghị quyết 9”, Hồ cho gọi Nguyễn văn Kỉnh, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, đang làm nhiệm vụ đại sứ ở Nga-xô về giữ ghế chủ tịch hội Việt-Xô, kiêm phó ban đối ngoại trung ương, phụ trách thường trực (Nguyễn duy Trinh, ủy viên chính trị bộ là trưởng ban kiêm phó thủ tướng, phụ trách bộ trưởng ngoại giao). Như thế có nghĩa Hồ đã làm yên lòng mẫu quốc đỏ Nga-xô, vì vị trí của Nguyễn văn Kỉnh quan trọng hơn Dương bạch Mai nhiều và cũng là người được Nga-xô hiểu và tin hơn.

Tháng 10-1964, lại có đảo chánh cung đình ở Nga-xô, Brê-giơ-nép thay cái ghế của Khơ-rút-xốp. Lê Duẩn mà có người “hư cấu” là thân Trung cộng, theo lệnh Hồ cầm đầu đoàn “cái bang” sang Nga-xô xin viện trợ cho kế hoạch tăng cường thâm nhập miền Nam Việt Nam. Và, tại đại hội lần 23 của Nga-xô, Lê Duẩn còn công khai tuyên bố: “Liên-xô là tổ quốc thứ hai của chúng tôi”!!!
 
Thử đặt câu hỏi: “Chúng tôi là ai”? Xin thưa: Như thế có nghĩa là: Toàn thể tập đoàn mafia đỏ Việt Nam mà họ Hồ là đầu lãnh chóp bu (chủ tịch đảng). Khác với lời tuyên bố của Vũ đình Liệu, năm 1978, là chủ tịch Sài-gòn, khi thăm Lê-nin-grát chỉ nói rằng: Liên-xô là tổ quốc thứ hai của tôi, và chuyến đi này là hành hương về thánh địa”!!!
 
Hồ không ra mặt tuyên bố là còn để mở lối đi lại với “anh hai Trung cộng”. Hơn nữa, câu đó Hồ đã nói từ khi mang cái tên Nga – Line – và Hồ thường gắn vào mọi nghị quyết của mafia đỏ là: “Phải bảo vệ Liên-xô, thành trì cách mạng thế giới”, cũng như khi còn rúc đầu ở hang Pắc-bó (Cao-bằng), đã gọi dòng suối chảy qua cửa hang là Lê-nin. Thật quá đủ diện mạo của Hồ là thật lòng với ai và giả dối với ai.

Lập luận cho Lê Duẩn là thân Trung cộng, rồi vì Mao chơi kẻ cả nên Duẩn tự ái ngả sang Nga-xô, chỉ dựa theo tên thò lò cơ hội Trần Quỳnh, thì đúng như lối nói ở miền Nam là: “chơớc quơớc”!

Nên nhớ rằng, mặt của tụi đầu đà mafia đỏ, từ Hồ cho đến nay là bè lũ Nông đức Mạnh, dày như da tê giác, trơ như thớt chặt thịt quay của các tiệm ba Tàu ở Chợ-lớn. Lũ vô liêm sỉ đó chỉ quan tâm đến quyền lợi của chúng, ở cái ghế ngồi của chúng mà thôi. Chúng tự cao chỗ này, tự ti chỗ kia, đâu biết tự ái!

Ai đã biết thằng Trần Quỳnh rồi thì chẳng bao giờ nghe nó nói, đọc nó viết. Còn chót đọc của nó viết rồi thì nên quên đi cho vệ sinh bộ nhớ!

Hồ ngồi ở Ba-đình giật dây: Lê Duẩn khúm núm với Brê-giơ-nép, còn phía “anh hai Trung cộng” thì đã có Hoàng văn Hoan ăn nằm thường trực cùng với những yêu cầu về súng, đạn của Nguyễn chí Thanh từ miền Nam Việt Nam tới tấp gửi ra. Hoan và Thanh mới chính là hai tên thân Trung cộng thứ thiệt. Hoan thì khoái gái Tàu và đồ ăn Tàu và rượu Mao-đài. Còn Thanh thì thích “uống máu dân” như Trung cộng và lúc nào cũng gồng mình, gân cốt như mấy võ sinh ở Thiếu-lâm-tự vậy. Sự sốt sắng của Thanh là vì muốn “vĩ đại” hơn Võ nguyên Giáp. Nhưng còn một lý do thầm kín nữa là Thanh muốn Hồ quên cái tội của Thanh khi bị mật thám thực dân Pháp bắt đã khai tùm lum, làm tan tổ chức mafia đỏ ở Khu 5, nhưng Thanh lại “vu” cho Đặng xuân Thiều (anh em họ của Trường Chinh) là kẻ khai báo. Hồ biết cái tội đó của Thanh nên mới dùng Thanh để cân bằng với Giáp (bị tù cũng khai báo và làm đơn xin khoan hồng). Vì thế mới gần như cùng lúc Hồ phong cho một cử nhân luật, giáo sư sử học là “đại tướng tổng tư lệnh”, thì cũng cho làm “tướng bốn sao” một anh chàng trên mức đọc thông viết thạo, kiêm chủ nhiệm tổng cục chính trị. Nghĩa là bên chuyên bên hồng (như kiểu ở xe hơi thì bên là động cơ phát lực di động, bên là cái thắng) như thế mới an toàn cho Hồ cầm bánh lái lực lượng vũ trang. Cho nên đến tận ngày Hồ chết, không bao giờ Hồ nghĩ đến việc ban cho Giáp cái quân hàm “nguyên soái”!!!

Tội ác của Nga-xô và Trung cộng đối với nhân dân Việt Nam nói chung và nhân dân miền Nam Việt Nam nói riêng cũng “vĩ đại” ngang nhau. Đó là việc bọn chúng đào tạo ngụy quân, trang bị hiện đại cho chúng và khuyến khích chúng lập thành tích tàn phá tài nguyên, tàn sát nhân dân Việt Nam càng nhiều càng tốt. Cho nên bất cứ nhóm nào chỉ chống Trung cộng mà thân Nga-xô hay ngược lại, không thể được coi là hành động vì dân vì nước.

Chỉ có người dân mới sáng suốt nhận diện được cả ba kẻ thù là: Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn mafia đỏ Hồ chí Minh.
Những thành phố lớn như Hà-nội, Hải-phòng, Nam-định, từ thuở đó đã xuất hiện những bài “đồng giao”, trẻ con tụ tập hát như:
“Ông Liên-xô
Bà Trung quốc
Ông đi guốc
Bà đi giầy
Ông nhảy dây
Bà bắn súng
Ông khen: đúng
Bà chê: sai
Bỏ cả hai
đúng nhất!”
Hoặc thơ ghế đá:
“Họ Hồ có cái mặt mo
Bắc-kinh xin đổi ba bò, chín trâu
Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu
Nga-xô xin đổi một xâu cá mè
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè
Bắc-kinh xin đổi một bè gỗ lim
Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim
Nga-xô xin đổi đôi chim đồi mồi
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi
Bắc-kinh xin đổi máu tươi: Hồ cười
Nga-xô thêm “tý” thịt người Việt Nam
Mặt mo! Hồ đúng Việt gian!!!”

Thế là Lê Duẩn thì đóng vai cánh tay phải của Hồ, nắm chặt tay “anh cả Nga-xô”. Lê Duẩn còn đặt vào cái ghế đại sứ ở Nga-xô một nhân vật “lạ kỳ về sự thân tín” của Duẩn, đó là Nguyễn thọ Chân. Cho đến tận 1960, anh chàng Nguyễn thọ Chân này, cũng như tụi mafia đỏ khác, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, tập kết ra Bắc, vẫn còn nằm trong ẩn số. Hắn làm thường trực, tức gác cửa ở văn phòng bộ Lao động. Một hôm Lê Duẩn đến bộ Lao động, nhìn thấy Nguyễn thọ Chân, hỏi tại sao lại làm “gác cửa” ở đây. Chân đáp là do “tổ chức” sắp xếp. Vài ngày sau, Nguyễn thọ Chân được Lê Duẩn gọi lên gặp Hồ. Và, sau đó thì “tự dưng” được đề bạt thành “ủy viên dự khuyết trung ương mafia đỏ” và cầm quyết định ra làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh (tỉnh biên giới với Tàu), thay cho Hoàng Chính, một người gốc Nùng, thân Trung cộng và là đệ tử ruột của Trường Chinh. Sau đợt gọi là dẹp yên nhóm chống đối nghị quyết 9, Nguyễn đức Tâm, từng là phó cho Hồ viết Thắng trong cải cách ruộng đất, khi sửa sai bị “lột chức” dự khuyết trung ương mafia đỏ, nhưng lại về làm tổng cục trưởng tổng cục vật tư, nay ra thay Nguyễn thọ Chân làm bí thư tỉnh ủy Quảng-ninh. Tại cái đất mỏ than này, Nguyễn đức Tâm đã phát hiện ra hai con “gà nòi” mafia đỏ để đào tạo. Đó là tên Phạm thế Duyệt, tham nhũng “một cây”, và tên nữa là Vũ Mão. Đến thời Nguyễn văn Linh, Nguyễn đức Tâm vọt lên ngồi vào cái ghế của Lê đức Thọ, tức là trưởng ban tổ chức trung ương. Điền này càng chứng minh việc họ Hồ “nhận sai lầm trong cải cách ruộng đất” chỉ là một thủ đoạn chính trị lưu manh mà thôi. Còn Nguyễn thọ Chân, được Hồ phong cho chức ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ, để qua Nga-xô làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

Và, kẻ đóng vai tay trái của Hồ là Trường Chinh, thì luôn luôn tỏ ra Mao-ít, với bài nói gay gắt trong cái gọi là “đại hội các nhà văn”, tức lũ bút nô, và bài báo sặc mùi “công xã” trên báo Nhân dân, phê phán việc “khoán sản phẩm” đến các hộ nông dân của Kim Ngọc, bí thư tỉnh ủy của mafia đỏ ở Vĩnh-phú, và Kim Ngọc bị lột chức, ngồi chơi cho đến chết. Hoàng văn Hoan, một kẻ được Trung cộng hết lòng tin cậy, từ Bắc-kinh về Hà-nội để có mặt đều đặn trong các cuộc họp chính trị bộ, nhằm làm Trung cộng an tâm là không có bàn thảo gì bậy bạ sau lưng “anh hai Trung cộng”. Cái ghế đại sứ ở Bắc-kinh được trao cho một đàn em thân tín của Trường Chinh. Đó là trung tướng Trần tử Bình, nguyên tổng thanh tra ngụy quân cộng sản, ủy viên chính thức của trung ương mafia đỏ. Bình là gốc công giáo, “tu xuất”, gia nhập mafia đỏ cùng thời với ông Vũ đình Huỳnh!

Nhân sự do Hồ bày biện xong xuôi, thế là từ Nga-xô lũ ngụy quân học lái máy bay, điều khiển ra-đa, tên lửa; ngụy quân lái xe tăng, công binh, vũ khí hóa học trở về, cũng như máy bay Mic-17 và tên lửa Sam ào ào đổ vào cho Hồ; cùng vài phi đội Mic-21 với phi công Nga-xô và Bắc-hàn. Nhiều nhân viên dưới quyền Trần quốc Hoàn, bộ trưởng công an, được đưa qua học nghề gián điệp tại Cu-ba và Đông-Đức cũng trở về. Lũ mafia đỏ ở miền Nam tập kết ra Bắc trước đây, được tập hợp, đào tạo lại tại Thái-nguyên để cho thâm nhập miền Nam Việt Nam. Nhân sự miền Bắc trong các ngành giao thông vận tải, bưu điện – truyền thanh và thương nghiệp cũng được tổ chức qua Lào nắm các công tác chuyên môn, kể cả các chức vụ trưởng ty của tỉnh. Bộ công nghiệp được Hồ thổi phồng lên thành ủy ban nông nghiệp trung ương, vì nó có nhiệm vụ quản lý cả ngành nông nghiệp không chỉ của “toàn Việt Nam” mà là của toàn Đông-dương. Nào là kế hoạch trồng ngô trên cao nguyên Bô-lô-ven, cũng như kế hoạch nuôi bò giống ở Ba-vì (Sơn-tây) sản xuất tinh viên đủ để cải tạo đàn bò của cả Việt Nam, Lào và Miên!!! Hồ đích thân cưỡi trực thăng đi thăm trại bò giống, và sau đó thì lại đẻ ra trò hưởng thụ mới, nghĩa là ngày ngày máy bay trực thăng lên trại bò sữa Sơn-la hoặc Ba-vì chở sữa tươi về cho Hồ và lũ đầu đà trong tập đoàn Việt gian của Hồ uống.

Trong lúc mà những bà mẹ “công nhân” thiếu sữa cho con bú, phải ra phòng thương nghiệp ngồi chờ vài tiếng đồng hồ để nhân viên thương nghiệp ra bóp vú, nếu thấy quả là không có sữa mới cấp tem cho mua hai hộp sữa đặc, nhãn hiệu “ông Thọ”, nhiều khi đã quá hạn. Con bú hết, muốn xin mua tiếp, người mẹ lại phải ra cho thương nghiệp “bóp vú lại”. Cứ như thế cho đến lúc đứa bé đủ mười hai tháng tuổi thì coi như hết tuổi bú sữa!!!

Việc viện trợ quân sự của “anh cả Nga-xô” và “anh hai Trung cộng” là giúp Hồ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam cho có hiệu quả, nên mọi yêu cầu sự giúp đỡ cụ thể từ phía Trung cộng là do Nguyễn chí Thanh đề xuất, kể cả việc xin Trung cộng cho công binh qua làm đường để chuyển vận chiến cụ. Được Hồ bật đèn xanh, “anh hai Trung cộng” khoái lắm, kéo lính ào ào sang, mang theo gạo, thịt, đường, sữa, thuốc lá “Trung hoa bài”, “Đại tiền môn”; bơ “Mông cổ”, thịt hộp v.v… và tiến hành vừa làm đường, vừa làm “dân vận” theo kiểu Tống Giang ở Lương Sơn Bạc. Nghĩa là ở các cung đường, công binh Trung cộng xây các quán “bát giác” để một thùng trà tàu loại ngon, lúc nào cũng nóng và đầy, cùng rất nhiều ca tráng men để cho khách qua đường dừng chân vào nghỉ, thoải mái uống trà “chùa”. Đã thế lại còn có lính Trung cộng khoác áo trắng, đeo khẩu trang sẵn sàng hớt tóc, cạo râu “free” cho bất cứ ai có yêu cầu. Trên bàn cạnh thùng trà là báo ảnh của Trung cộng đầy ắp, sách đỏ, trích dẫn lời của Mao, in bằng giấy xịn và bìa có vỏ bọc ny-lông màu đỏ. Rồi đủ loại huy hiệu có hình Mao và cờ Trung cộng, có cái to bằng lòng bàn tay người lớn. Người vào quán được lính Trung cộng lễ phép, niềm nở tiếp, rót nước, tặng báo ảnh, sách đỏ của Mao và gắn huy hiệu của Mao rồi mới hớt tóc, cạo râu.

Người dân Việt Nam, dù bị tới ba tầng thống trị là Nga-xô, Trung cộng và tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, mặt mũi khù khờ, nhưng có nhiều đòn hiểm làm lũ thống trị đau như hoạn mà không kêu ai được. Họ đua nhau xin báo ảnh, sách đỏ của Mao và huy hiệu. Tụi Trung cộng hí hửng tưởng người dân Bắc Việt Nam cũng có máu Việt gian như tập đoàn Hồ cho Minh nên bị “bé cái lầm”. Người ta lấy báo ảnh của Tàu về để nhóm bếp, để dán lên vách nứa chống gió, xe lại như điếu thuốc lá rồi lấy dây luồn qua làm mành mành che cửa. Sách đỏ thì lột vỏ bọc làm “ví đựng tiền hay thuốc lào”, giấy thì để quấn “thuốc rê”. Huy hiệu của Mao thì trẻ con dùng đánh đáo, đánh cờ kim, mộc, thủy, hỏa, thổ v.v… Và, người qua đường khỏi nói, dân quanh đó đua nhau ra lấy trà về uống thừa mứa còn dùng rửa đít cho trẻ em bị hăm bẹn hoặc người lớn ngâm chân chống nước ăn chân (vì trà có nhiều chất “tan-nanh” làm khô da). Và, thừa cơ là “mượn dài hạn” các ca tráng men, thậm chí còn rinh cả thùng nhôm đựng trà. Người ta đến đó cho lính Trung cộng hầu hạ, cắt tóc, cạo râu, cạo mặt và cứ “tả cố, tả cố” (tức đại ca) hoặc “thổng trủ” (tức đồng chí, thế mà mấy anh lính mắt một mí tít cả hai mắt lại, và mấy chú nhỏ nhanh hơn sóc đã nẫng gọn bộ đồ nghề hớt tóc. Vài tháng đầu, bọn lính Trung cộng còn “hào phóng”, mất thì thay cái mới vì cho rằng dù sao đó cũng là sản phẩm “tuyên truyền Mao-ít” vì từ ca uống nước, thùng đựng nước v.v… cái gì cũng có hình Mao và cờ Trung cộng, theo kiểu lý thuyết Paplov thì nó sẽ định hình trong vỏ não người dân Việt Nam hình ảnh phốp pháp, bụ bẫm của “bác Mao”. Chỉ mãi sau nhờ có Hoa-kiều cho tin “tình báo” rằng thùng nước, nếu bằng nhôm, thì được phá ra đúc “chắn bùn” hoặc “chắn xích” xe đạp; nếu bằng tôn thì được phá ra làm máng nước v.v… nghĩa là “đầu bác Mao” ở những thùng đó bị thủ tiêu không kèn không trống! Thế là, sau đó hậu duệ của quân lính Tô Định, Mã Viện v.v… đành cử người gác ban ngày, nhưng vẫn cẩn thận có xích, có khóa để khóa thùng nước vào cột lầu, khóa cả vào thùng nước, chiều tối thì khiêng về doanh trại. Còn sách báo, huy hiệu và chuyện hớt tóc thì bỏ luôn. Thế là đang “dân vận” thành “dân hận”!!!

Lính Trung cộng còn có những trò hề hết sức ấu trĩ nữa. Như doanh trại của chúng thường nuôi vịt. Lũ vịt này ra ruộng của hợp tác xã rúc chân lúa. Đại diện hợp tác xã đến doanh trại của chúng khiếu nại. Thế là chỉ huy của Trung cộng sai lính ra đuổi bắt đàn vịt về chặt đầu kỷ luật, lấy cọc chọc vào “đầu lâu vịt” đem ra cắm ở bờ ruộng!!! Tất nhiên thịt vịt thì chúng ăn. Đúng là quái thai của thế kỷ 20!!! Đầu mối mọi con đường bộ do công binh Trung cộng làm đều tập trung về ga Yên Viên (Đông-anh), cách trung tâm Hà-nội chưa đến 30km. Một số người lo cho vận nước, đi tham quan những con đường đó đều thấy dã tâm của Trung cộng, khi cần thiết, chúng có thể rất nhanh chóng đổ quân ào vào Hà-nội. Chúng còn cớ làm đường, đào bới những vùng cho tới tận núi Diều ở Ninh-bình, rào kín cấm qua lại cứ như là đất của Trung cộng vậy.

Và từng đoàn, từng đoàn xe tải loại 5 tấn, bạt che kín, không biết chở những gì từ những chỗ đào bới đó về Tàu. Nhiều người dân cho rằng bọn chúng sang đào những kho vàng bạc mà trước đây chúng chôn giấu thời Việt Nam bị Bắc thuộc cả ngàn năm. Nhiều hang động vùng Ninh-bình, Thái-nguyên, Bắc-cạn, Tuyên-quang, Lạng-sơn, Cao-bằng bị chúng phá tanh bành. Tụi điên Bắc Việt Nam thấy lính Trung cộng của Mao còn có phần điên hơn. Lúc nào cũng tụng sách đỏ của Mao. Mặt mũi lúc nào cũng đăm chiêu cứ như “hiền triết phương đông” vậy! Phải cho đến cái ngày máy bay Mỹ bắn phá ga Bắc-giang (Bắc Việt Nam), lính Trung cộng hiên ngang không thèm xuống hầm, giở sách đỏ của Mao ra tụng rồi đứng bắn máy bay Mỹ. Kết quả, máy bay Mỹ phóng cho mấy quả rocket mà đã chết hàng đống, bấy giờ con cháu họ Mao mới biết thế nào là “lễ độ”. Dân Việt Nam được mẻ cười “bể bụng”. Người ta chẳng những chẳng xót thương “các đồng chí nước bạn” mà nhiều người còn công khai nói: “Mong cho đế quốc Mỹ bắn chết mẹ nó hết cái lũ quỷ này đi!”
 
Những chuyện chơi khăm và chửi Trung cộng như thế hầu như chẳng ai là không biết. Vậy mà chẳng ai bị công an hỏi thăm sức khỏe. Điều đó chứng tỏ, khi Hồ còn sống, và sau khi Trường Chinh bị Hồ tước mất cái chức “tổng bí thư” thì đã chịu khuất phục Hồ và đóng đúng vai kịch mà Hồ phân công.

Chỉ cho đến lúc Nguyễn chí Thanh đưa đề nghị đem hết ngụy quân ở Bắc vào miền Nam Việt Nam, còn miền Bắc nhờ Trung cộng đưa quân sang “bảo vệ” hộ, thì Hồ mới phải đi nước cờ quyết định. Đó là, trước buổi đi vào Nam trở lại, Nguyễn chí Thanh được Hồ gọi ăn cơm tối cùng Hồ. Sau bữa cơm tối, ngày 6-7-1967, về thì Nguyễn chí Thanh chết, tương tự như cái chết của Dương bạch Mai vậy. Và, sau đó, đích thân Hồ yêu cầu Trung cộng rút công binh về nước. Và, Trung cộng đành rút quân, nhưng làm những trò rất bần tiện, như san bằng, đốt cháy hết doanh trại. Các giếng nước đều lấp hết. Chặt từ gốc chuối chặt đi, nghĩa là làm kiểu “không ăn thì đạp đổ, phá cho bõ ghét”!!!

Cái chết của Nguyễn chí Thanh làm Trung cộng đau lắm. Trong chính bộ mafia đỏ, không kể Hồ, Nguyễn chí Thanh xếp hạng thứ sáu (sau Giáp). Ấy thế mà đích thân cả Mao và Lâm Bưu cùng đến sứ quán ngụy quyền Hồ chí Minh ở Bắc-kinh đặt vòng hoa và nghiêng mình viếng. Còn sau này, Hồ chết, Mao và Lâm Bưu chỉ cho thư ký riêng mang vòng hoa viếng đến sứ quán mà thôi!!!
 
Những người cho rằng Hồ bị nhóm Lê Duẩn, Lê đức Thọ khống chế từ khoảng 1955-56 chỉ là tưởng tượng. Vì giai đoạn đó chưa có dấu hiệu gì tỏ ra nhóm Lê Duẩn trên cơ ngay cả Trường Chinh chứ đừng nói gì đến Hồ. Ngay cả sau đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, nhiều người còn lẫn lộn cả danh xưng của Lê Duẩn, họ viết rằng Lê Duẩn được bầu là “tổng bí thư”. Điều đó là sai hoàn toàn. Trong đại hội 3 (1960) của mafia đỏ, Hồ chính là người giới thiệu danh sách chính trị bộ gồm 11 người, giới thiệu ban bí thư và giới thiệu Lê Duẩn vào chức “bí thư thứ nhất” để cho ban chấp hành trung ương bầu. Tất nhiên tất cả đều diễn ra đúng như ý Hồ, kể cả cái thứ tự trong bộ chính trị không kể Hồ, như Giáp thì ở dưới Phạm văn Đồng, Lê đức Thọ ở hàng thứ 7 và Hoàng văn Hoan ở hạng chót. Cứ nghe cái danh xưng cũng đủ thấy rằng “bí thư thứ nhất” không thể bằng “tổng bí thư”. Nghĩa là ngôi vị của Lê Duẩn không thể so được với ngôi vị của Trường Chinh trước đó. Vì hiểu ý đồ của Hồ, nên nếu tham khảo lại các báo Nhân dân sau đại hội 3 mafia đỏ thì sẽ thấy một “chi tiết” để chứng minh điều trên. Đó là tại các cuộc mít-ting hay cuộc họp, dù có mặt Lê Duẩn, Trường Chinh chỉ nói: “Kính thưa Hồ chủ tịch”, còn sau đó chỉ gọi chung: “Thưa các đồng chí”. Dù Lê Duẩn đã được chính thức hóa qua đại hội 3 mafia đỏ, để thành nhân vật số 2, vậy mà Trường Chinh còn “coi thường” Lê Duẩn, nghĩa là tận năm 1960. Thế thì làm sao trước đó lại có thể có cái chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ “khống chế quyền lực” của Hồ.

Chuyện hành lang sau này lộ ra, cho biết Hồ đã “phê bình” Trường Chinh về chuyện coi thường Lê Duẩn, nghĩa là không tuân phục tổ chức. Thì sau đó, Trường Chinh bắt buộc phải đả động đến Lê Duẩn, nhưng lại nói: “Thưa đồng chí Lê Duẩn, bí thư thứ nhất ban chấp hành trung ương đảng”. Có nghĩa là Trường Chinh ”thưa” Duẩn vì cái chức “bí thư thứ nhất” chứ không phải con người Lê Duẩn và hoàn toàn không có chữ “kính” như đối với Hồ, khác hẳn với tính cách hèn hèn của Võ nguyên Giáp, bao giờ cũng lễ phép: “Thưa đồng chí Lê Duẩn kính mến; thưa đồng chí Trường Chinh kính mến”!!!

Hồ bắt Trường Chinh phải “tôn trọng” Lê Duẩn cũng chẳng phải ưu ái gì Lê Duẩn. Mà Hồ không cho phép được lộn xộn với những sự sắp xếp của Hồ mà thôi.
Chính vì thế mà Hồ ra khẩu lệnh trấn áp nhóm gọi là “xét lại chống đảng”, vì Hồ không chống nghị quyết 9 thì đúng ra tất cả phải răm rắp tuân theo Hồ. Có thể Hồ tha thứ khi thảo luận mà có ý kiến này nọ về nghị quyết 9. Còn đã chống, bị thiểu số mà “vẫn bảo lưu ý kiến” thì đồng nghĩa là chống lại Hồ đến kỳ cùng. Một kẻ tàn bạo, tự tôn và độc tài như Hồ, tất nhiên hắn phải trấn áp. Lê Duẩn và Lê đức Thọ chỉ là kẻ thừa hành lệnh của Hồ mà thôi. Chẳng khác gì trong vụ bà địa chủ yêu nước Nguyễn thị Năm, chủ đồn điền Đồng-bẩm (Thái-nguyên) bị tử hình. Hồ chỉ ra lệnh giết cái chỉ tiêu 5% dân số nông dân là địa chủ, không trực tiếp bảo giết bà Nguyễn thị Năm. Nhưng khi Hoàng quốc Việt (thường trực ủy ban cải cách ruộng đất) xin Hồ xét lại công lao của bà Nguyễn thị Năm thì Hồ từ chối, nói là cứ làm theo “cố vấn Trung cộng”. Nghĩa là cứ làm thịt bà Nguyễn thị Năm. Hồ rất thâm độc, vì nếu Hồ can thiệp thì chính là Hồ tự trói tay mình. Cho nên vụ bà Nguyễn thị Năm được làm ngay đầu tiên ở đợt gọi là “thí điểm”! Các đội cải cách thấy rằng, đến bà Nguyễn thị Năm là người có ơn không chỉ với Hồ và với toàn thể đầu lĩnh mafia đỏ chóp bu mà vẫn để cho “nông dân cốt cán” giết thì, ngoài Hồ ra, chẳng ai đáng kể. Vì thế mới có chuyện ở Hành Thiện, đội cải cách cho lệnh bắt cả bố đẻ của Trường Chinh và còn đòi Trường Chinh phải về quê cho “cốt cán” hỏi tội liên quan với địa chủ cường hào. (Về chuyện này có người lầm rằng Trường Chinh đã đấu cả bố đẻ. Họ lầm như vậy chẳng hóa ra Trường Chinh thẳng thắn “pháp bất vị thân” hay sao?(!)). Và, đấy cũng là ý đồ của Hồ, muốn rằng: “rễ cốt cán” sửa gáy tất tật những ai có chức, có quyền. Kẻ chết, hay tù thì thôi, kẻ thoát nạn thì tởn đến chết, hoặc theo Hồ ngoan ngoãn như bầy cừu, hoặc trốn vào vùng của Quốc trưởng Bảo Đại, càng tốt. Vì điều đó “chứng minh” họ là “phản động nằm vùng” thật (có ai biết rằng chính Hồ đẩy người ta phải đi tìm đường sống).

Hiện nay không có chút gì khó khăn để tìm đọc lại những số báo Nhân dân hay xem lại những thước phim tài liệu và thời sự của thời kỳ trước vụ Tết Mậu Thân (1968). đó có đủ chứng cớ để thấy Hồ vẫn là kẻ chủ mưu trong vụ xâm lăng đó. Những người hư cấu chuyện “Hồ bị ra rìa” kể cả Lữ Phương, đều gắn Hồ và Giáp cùng một phe và bị phe Lê Duẩn, Lê đức Thọ chèn ép, đến mức vụ Mậu Thân (1968) Hồ chỉ làm nhiệm vụ “thâu băng” bài thơ chúc tết, còn thì không biết gì cả, chưa cần sử dụng đến nhiều tài liệu trên báo Nhân dân và phim tài liệu, thời sự, chỉ cần lấy một tin trên báo Nhân dân có tường thuật vài tháng trước Tết Mậu Thân (1968), Hồ đã sang sân bay Gia-lâm thăm lính ngụy trong đơn vị tên lửa và không quân để động viên tinh thần chiến đấu của bọn chúng. Tháp tùng Hồ có nhiều bộ mặt ác ôn, trong đó có Võ nguyên Giáp và Tố Hữu. Chuyện kể lại dưới đây, không đăng trên báo nào cả, nhưng nó lại được kể ở hầu hết các tòa soạn báo, đài và cả ở các quán cà-phê, quán bia hơi ở Hà-nội. Đó là khi nghe tin Hồ đến thăm đơn vị, lính ngụy trong binh chủng phòng không, không quân vừa đi học ở Nga-xô về, ào ào chạy ra chẳng có hàng ngũ gì cả. Từ tư lệnh binh chủng cho đến tụi bảo vệ, cho đến Tố Hữu, Văn tiến Dũng đều vây quanh để “bảo vệ” Hồ, trong khi Võ nguyên Giáp cầm loa điện cầm tay gào lên: “Yêu cầu trật tự”, mà lính ngụy cứ lờ đi. Hồ bèn giật lấy loa trên tay Giáp và hô: “Nghiêm”. Theo “phản xạ lính”, tất cả đứng nghiêm. Hồ lại hô to: “Tất cả xếp hàng, năm hàng dọc!” Bọn lính vội xếp hàng. Hồ hô tiếp: “Nghiêm!”, rồi lại hô: “Nghỉ!”; và cuối cùng Hồ hô: “Nghiêm! Đằng sau quay! Đều bước!” Bọn lính ngụy răm rắp làm theo. Bấy giờ Hồ cười cười quay lại bảo Giáp: “Chú là đại tướng thế mà không biết điều khiển lính!”
 
Một tên gián điệp lão luyện, phản ứng rất nhanh như Hồ, ăn nói với phó thủ tướng, bộ trưởng, đại tướng như nói với thằng nhỏ, con sen như vậy, liệu có thể là kẻ để cho Lê Duẩn không chế không?
Có một điều nữa mà các nhà “hư cấu” quên. Đó là ai ai cũng biết rằng bày binh, bố trận và điều khiển toàn bộ cái gọi là “tống tấn công và nổi dậy” của Tết Mậu Thân (1968) là do Võ nguyên Giáp chỉ huy. Nếu Giáp đã cùng phe với Hồ thì tại sao Giáp lại đi với Lê Duẩn và Lê đức Thọ để chơi gác Hồ, không cho Hồ biết gì caû. Như thế là Giáp theo phe Lê Duẩn rồi còn gì nữa. Hơn nữa cái kế hoạch về Tết Mậu Thân (1968) đó, đâu phải là chuyện hai ba ngày hay hai ba tuần, mà phải chuẩn bị chí ít là cả năm!!!

Có thể nói rằng, ý đồ của Hồ muốn chiếm được miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân (1968) là chính. Hồ tưởng rằng sau vụ tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, miền Nam bị khủng hoảng chính trị, các tướng lãnh thay nhau cầm quyền, chưa ổn định, là thời cơ thuận lợi cho Hồ sớm được làm chủ tịch cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Cho nên cái “tổng tấn công và nổi dậy” là ý kiến của Hồ và khẩu khí của Hồ, rất ăn khớp với “thi hứng” của Hồ trong sáng tác bài vè chúc Tết Mậu Thân (1968). Võ nguyên Giáp chỉ là kẻ thừa hành về kế hoạch quân sự, còn Lê Duẩn là về mặt chính trị, nghĩa là chỉ đạo cái xứ ủy mafia đỏ ở miền Nam (hay còn gọi là đảng nhân dân cách mạng) làm cái việc tổ chức cho nhân dân vùng dậy!

Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh quá chủ quan. Ấy là miền Nam Việt Nam còn đang bị khủng hoảng chính trị mà tụi chúng còn bị ôm đầu máu. Và, nhân dân miền Nam Việt Nam thì chỉ có số ít đầu trâu mặt ngựa nghe chúng xúi dại “ăn cứt gà sáp”, và một số “trí thức yêu bánh vẽ” là tụ họp đánh võ mồm rồi trốn ra bưng!

Từ ngày có mafia đỏ Hồ chí Minh, thì rõ ràng chỉ có những quân nhân tiền thân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa là đích thực chống mafia đỏ bảo vệ đất nước và dân tộc Việt Nam. Chính cái lực lượng này, trong chiến tranh thì đem sinh mạng, máu thịt, hạnh phúc gia đình, tuổi trẻ, sức khỏe, hiến dâng cho Dân tộc và Tổ quốc. Sau khi bị mafia đỏ xâm lược, đặt ách cai trị thì cũng cái lực lượng này bị tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh trả thù tàn bạo không chỉ cá nhân mà cả gia đình. Sống thì tù đày, chết thì bị san bằng mồ mả. Và, cho đến nay thiệt thòi nhất vẫn là những quân nhân anh hùng đó bị tàn phế, còn kẹt lại ở trong nước, tiếp tục bị phân biệt đối xử và trấn áp không chỉ cá nhân mà hệ lụy đến cả gia đình, con cái.

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa là ân nhân, là chỗ dựa tin cậy của đất nước và nhân dân Việt Nam, đã và vẫn sẽ là chủ lực trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của nước Việt Nam dân chủ.

Những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cũng như các thế hệ Việt Nam hiện nay và sau này không thể không ghi nhớ trong tâm khảm những con người anh hùng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hiện đại. Đó là các thiếu tướng liệt sỹ Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng; các chuẩn tướng liệt sỹ Trần Văn hai, Lê Nguyên Vỹ; đại tá liệt sỹ Hồ Ngọc Cẩn; trung tá liệt sỹ Nguyễn văn Long v.v…; cũng như các vị liệt sỹ Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch v.v…; và các vị tử vì đạo như cụ bà Nguyễn Thị Thu, Phật tử Hồ Tấn Anh v.v…
 
Để giấy bút viết về những người đó, để lòng quý mến, yêu thương tưởng niệm những người đó hơn là “đi tỵ nạn cộng sản” mà phúng điếu, thương khóc những tên cộng sản nằm vùng, trong khi thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn kẹt ở Việt Nam thì phải ăn xin, bị phân biệt đối xử; các người đấu tranh cho tự do tôn giáo, cho dân chủ bị khủng bố, bị tù đày v.v…, còn bọn chúng, như tên Trịnh công Sơn là một ví dụ, sống thì ở vi-la trên con phố của quan lại đỏ cao cấp; uống rượu tây, đi nước ngoài như đi chợ; chết thì các đầu lãnh chóp bu mafia đỏ ở trung ương như Võ văn Kiệt (tác giả nghị định 31/CP), Phan văn Khải v.v… gửi điện chia buồn, gửi hoa phúng điếu; và chóp bu mafia đỏ ở Sài-gòn là Nguyễn minh Triết đích thân đến ngồi bên quan tài!!!

Thất bại của Tết Mậu Thân (1968) là nguyên nhân để Võ nguyên Giáp không chỉ bị Hồ hết tin cậy “cái tài cầm quân” mà còn bị phe Lê Duẩn coi thường, kể cả các cấp dưới của Giáp như Văn tiến Dũng, Chu huy Mân.

Với Hồ, hắn choáng váng, không hy vọng gì sẽ được làm chủ tịch của cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam. Tên mật thám già xuống tinh thần và hắn quay lại với “tử vi”. Bởi đã một lần hắn tự bấm tử vi và đoán trúng là sẽ thành công lúc 55 tuổi (tức 1945), như Võ nguyên Giáp có nhắc đến trong cuốn “Những năm tháng không thể nào quên”. Trong thư viện quốc gia và cả thư viện khoa học xã hội ở Hà-nội, bao nhiêu sách về tử vi bị mượn dài hạn. Người ký tên mượn là Vũ Kỳ, thư ký riêng và tin cẩn của Hồ. Và, cũng cái năm 1968 đó, hoạt động của các tôn giáo như Phật giáo và Công giáo lại phục hồi. Người ta công khai đi lễ Nhà Thờ, đi lễ Chùa, lập bàn thờ ở gia đình, bày ảnh cha, chồng, con em theo Hồ đi ăn cướp ở miền Nam Việt Nam bị giết chết “bất đắc kỳ tử”, nhiều đứa bị mất xác. Thế là không chỉ lễ bái mà cả “gọi hồn” và “lợi dụng” tụ họp làm giỗ “liệt sỹ” để chè chén! Làm sao ngụy quyền Hồ chí Minh giải quyết được chuyện đó bằng biện pháp “chuyên chính”, bởi nhân sự ngay của cái gọi là cơ quan chuyên chính của Hồ cũng là nạn nhân của Hồ trong kế hoạch xâm lăng miền Nam Việt Nam. “Sinh Bắc tử Nam”, thực sự là nỗi lo sợ, ám ảnh mọi gia đình có con cái ở tuổi trưởng thành. Cũng từ đó bắt đầu có chuyện “trốn lính” nên có pháp lệnh ban hành luật “nghĩa vụ quân sự”. Nhưng, cái “luật nghĩa vụ quân sự” này bị phá ngay từ ở bậc hành chính cơ sở (tức huyện, xã). Con em, hoặc họ hàng xa gần của tụi mafia đỏ mafia đỏ ở cơ sở cũng bị bắt lính, và cái gương “ôm đầu máu” của Tết Mậu Thân khiến chúng lo sợ tìm cách “tập thể” trong đường dây trốn lính. Tỷ dụ như khi khám nghĩa vụ, họ đánh tráo người không đủ cân, chiều cao mà đội khám không thể nhận diện được vì có sự đồng lõa của chính “công an xã”, “chủ tịch xã” xác nhận kẻ “đánh tráo” là đương sự thứ thiệt!!! Đường dây đồng lõa lên tới tận cấp huyện. Cho nên nhân viên của “tỉnh đội dân quân tự vệ” về xã bắt những kẻ trốn lính mà có khi kẻ trốn lính đứng ngay trước mặt cũng đành chịu, chưa nói đến là họ báo động cho nhau bỏ trốn từ xã nọ sang xã kia! Đâu cũng có tình trạng trốn lính, nhưng nổi tiếng nhất là tỉnh Hà-tây (do hai tỉnh Hà-đông và Sơn-tây bị nhập làm một), có tên là “Hà lùi”!

Keine Kommentare:

Kommentar veröffentlichen